Nhiếp ảnh và nghệ thuật tạo hình từ không gian ba chiều đưa lên mặt phẳng của không gian hai chiều. Một số quy tắc bố cục, đường nét, ánh sáng... có sự tương đồng vô cực.v.v... Hội họa cũng như nhiếp ảnh thuộc nền văn hóa thị giác.
Tuy vậy, giữa nhiếp ảnh và hội họa có sự khác nhau khá cơ bản. Nhiếp ảnh được thể hiện bằng máy móc và hình ảnh được hình thành phải quả một quá trình tác động của quang, hóa. Trong lúc đó nhà họa sĩ thể hịện bức tranh bằng chiếc bút lông.
Nghệ thuật tạo hình (hội họa, điêu khắc, đồ họa..) có thể thể hiện vào tác phẩm những cái mà nhà nghệ sĩ nhìn thấy và cả cái không nhìn thấy cả tưởng tượng ra, nghĩa là đối với nghệ thuật tạo hình, nhà nghệ sĩ có thể thể hiện cái có trong thực tế và cả cái không có trong thực tế.
Đối với hội họa ngay khi thể hiện cái cóthực, trong đó nhà nghệ sĩ vẫn có thể thể hiện thêm những yếu tố tưởng tượng, nghĩa là từ cái có thực nhà nghệ sĩ có thể thêm hoặc thay đổi bố cục, màu sắc... tất cả những gì mà nhà họa sĩ thấy cần cho linh hồn của tác phẩm. Vì thế người ta khó có thể xác định được cái có thực và cái tưởng tượng trong mỗi tác phẩm hội họa.
Vì vậy có thể khẳng định rằng, hình ảnh xây dựng bằng bút “lông” chỉ có khẳ năng tạo nên ảo tưởng về tính tài liệu mà thôi. Nói cách khác, tác phẩm hội họa khó đạt đến tính hiện thực tuyệt đối.
Ngược lại nhiếp ảnh có ưu thế tuyệt đối so với hội họa, điêu khắc ở tính chân thật về tài liệu, khiến người xem tin tưởng những gì bức ảnh mang lại. Trong một số trường hợp có những bức ảnh do nghệ sĩ bố trí sắp đặt sai thực tế, nhưng vẫn có thể làm cho người xem tin là có thực chẳng hạn như “Nối sáng”, “Biển kết hoa”...
Nghĩa là, vì lẽ này lẽ nọ, người nghệ sĩ không thỏa mãn với những cái anh ta nhìn thấy, bèn tổ chức, bố trí lại theo trí tưởng tượng của anh ta, mặc dầu sự tưởng tượng đó xa thực tế, nhưng vẫn gây ấn tượng thực, chứ không có dấu hiệu nào chứng tỏ đó là kết quả của óc tưởng tượng như các tác phẩm nghệ thuật tao hình khác.
Việc khắc phục tính hiện thực tài liệu trong nhiếp ảnh để trở thành nghệ thụât là một điều hết sức khó khăn. Nghệ sĩ nào vượt qua đựơc tính tài liệu hiện thực của ảnh dể trở thành nghệ thuật, đó chính là giá trị đích thực của nghệ thuật nhiếp ảnh.
Xét về bản chất của nghệ thuật nhiếp ảnh, thì cái mạnh nhất và là điều cơ bản nhất làm cho nghệ thuật nhiếp ảnh khác với hội họa, đồ họa, điêu khắc là sự phản ánh hiện thực mang tính tài liệu nghệ thuật.
Đây chính là điều đầu tiên và là điều cơ bản làm cho nghệ thuật nhiếp ảnh có vị trí trong đội nghũ của nghệ thuật tạo hình. Trong đội ngũ này, nhiếp ảnh chiếm lấy khoảng trống trong giai đoạn đầu của tiến trình lịch sử văn học nghệ thuật. Bởi lẽ ý định tạo hình cộng với sự tái hiện thế giới khách quan vừa chính xác về tài liệu, vừa mang tính nghệ thuật, mà điều này không thể thực hiện đối với các ngành tạo hình, hội họa, điêu khắc... Vì vậy, hội họa, điêu khắc đi theo trường phái tả thực một cách trung thành tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, hay “chủ nghĩa nhiếp ảnh” trong hội họa.
Thẩm mỹ học khẳng định rằng nghệ thuật tạo hình (hội họa, điêu khắc...) không đặt ra cho mình nhiệm vụ tái hiện thực tế khách quan vừa đạt tính tài liệu vừa đạt tính nghệ thuật. Bởi hội họa, điêu khắc không thể cùng một lúc giải quyết được hai nhiệm vụ vừa nghệ thuật vừa hiện thực. Kết cục nó sẽ làm hỏng tác phẩm. Sự bay bổng của trí tưởng tượ ng và sự mong muốn khái quát hóa hình tượng hoàn tòan không thể dung hòa với việc ghi chép trung thành cái cụ thể, cái ngẫu nhiên. Nghệ thuật nhiếp ảnh phát triển mở ra cho ngành nghệ thuật tạo hình phương hướng giải quyết nhiệm vụ này: nhiệm vụ phán ánh thực tế khách quan vừa có tính nghệ thuật vừa mang tính tài liệu, mà đối với hộ ihọa, điêu khắc, là điều không thể thực hiện được.
Nhiếp ảnh nghệ thuật là một loại hình nghệ thuật cống hiến tòan bộ sự nghiệp cho mục đích cao cả này và ảnh nghệ thuật tồn tại được và có vị trí xứng đáng trong đại gia đình nghệ thuật tạo hình chính là nó hoàn thành xuất sắc được sự nghiệp kếthựop giữa nghệ thuật và tính tài liệu khách quan. Nói ngắn gọn: Một bức ảnh dù đạt nghệ thuật cao, nhưng thoát ly thực tế, xa rời cuộc sống, thì giá trị bức ảnh đó không đáng giá một đồng xu, nó chỉ còn là một trò chơi ánh sáng. Đó cũng là lý do tại sao về mặt mỹ học chúng ta phải loại ra khỏi đời sống nghệ thụât nhiếp ảnh những cái gọi là tác phẩm, mưu toan dùng những kỹ xảo khác nhau để “giải phóng” ảnh nghệ thuật ra khỏi “xiêng xích” của tính tài liệu.
Trong nhiếp ảnh nghệ thuật, một số nghệ sĩ dùng những biện pháp kỹ thuật kỹ xảo để tạo ra những bức ảnh giống tranh khắc gỗ như ảnh phân sắc độ (Posterization), ảnh nổi hoặc ảnh bán âm (Solarization)... làm mất đi cơ sở hiện thực tài liệu của bức ảnh... những bức ảnh như vậy không thể loại ra khỏi nghệ thuật nhiếp ảnh hoặc đối lập với nghệ thuật nhiếp ảnh. Nghĩa là một khi dùng biện pháp kỹ thuật này kỹ thuật nọ nó vẫn có quyền tồn tại trong nhiếp ảnh nghệ thuật. Bởi nhiếp ảnh nghệ thuật chấp nhận mọi thủ pháp, các kỹ xảo, với điều kiện không làm mất bản chất của nghệ thuật nhiếp ảnh, nghĩa là bức ảnh đó vẫn mang tính hiện thực.
Qua sự phân tích trên, cho phép chúng ta khẳng định rằng, nhiếp ảnh tham gia đội ngũ nghệ thuật tạo hình đã làm cho đội ngũ này trở nên phong phú, đầy đủ, chặt chẽ và bổ sung cho nhau.
Như chúng ta đã biết, trong hội họa... tỷ trọng kết cấu chân dung tương đối nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa to lớn về hình thức sáng tạo theo “lối tưởng tượng”. Ngược lại trong ảnh nghệ thuật, tỷ trọng riêng của các loại ảnh chắp ghép, và các loại ảnh dùng kỹ xảo làm mất tính hiện thực là hết sức nhỏ bé, không có ý nghĩa lớn lao. Ngày nay trong ảnh nghệ thuật chỉ có hình thức sáng tác theo lối “phóng sự - nghệ thuật” chiếm vị trí cao.
Lịch sử nhiếp ảnh chứng minh rằng, mối quan hệ của tất cả các loại hình nghệ thuật là sự giao nhau giữa hai quá trình trái ngược: Để đảm bảo sự phát triển của mình, các loại hình nghệ thuật cần tách nhau ra để gửi trọn đặc thù của mình, nghĩa là tìm cho mình một hướng đi riêng biệt mà các loại hình khác không thể làm được. Nhưng đồng thời cần phải học hỏi lẫn nhau làm cho nghệ thuật của mình ngày càng đa dạng phong phú.
Thật vậy trong buổi bình minh của mình, nhiếp ảnh đã học hỏi “bà chị - hội họa” và đã đạt được kết quả mà không rời bỏ đặc điểm cơ bản của mình là sáng tác trên cơ sở tài liệu hiện thực. Cũng như vậy, hội họa đã học hỏi nhiếp ảnh bắt đầu bằng chủ nghĩa ấn tượng, tức là hy vọng bắt lấy đối tượng trong một khoảnh khắc bất ngờ, tức là học hỏi nhiếp ảnh ở tính phán đoán nhanh.
Thực tế cho thấy, giữa hội họa và nhiếp ảnh tuy có sự giống nhau về mặt tạo hình, nhưng có nhiều điểm rất khác nhau. Nhưng lại có một nghịch lý là: Trong khi muốn đứng thật xa nhiếp ảnh, hội hạo lại sa vào chủ nghĩa trừu tượng tuyệt đối. Ngược lại nhiếp ảnh trong khi muốn độc lập với hội họa lại chỉ công nhận thể loại ảnh phóng sự và phương pháp phóng sự đơn thuần. Trong lúc đó có một bộ phận nhiếp ảnh có xu hướng “bắt chước tranh vẽ” còn hội họa khi tiến tới chủ nghĩa tự nhiên vốn có trong nhiếp ảnh.