Hồi đó, nếu những chiếc xe này mà về thôn quê, thì trẻ con tốp năm tốp bảy lũ lượt đuổi theo sau, cốt được tận tay rờ vào thân xe và tận mắt chiêm ngưỡng chú tài xế cao lớn bằng xương bằng thịt với bộ quân phục đĩnh đạc. Chả thế mà đám cưới Thi sỹ Kim Chuông, Chung một mình một xe về dự làm thôn dân làng Thắng ở Vĩnh Bảo – Hải Phòng “lác mắt”.
Số phận may rủi thế nào, anh em tôi được Thành hoàng làng Ho(1) bảo vệ, đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần chiến tranh và bình an vô sự. Sau gần bảy năm phục vụ ở quân đội, năm 1974 Chung được chuyển về Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn và năm sau sang Liên Xô cũ du học tại thủ đô Matxcơva. Còn tôi cũng được quân đội cử đi du học tại Liên Xô cũ, nhưng ở mãi nơi tít tắp mù khơi cách Matxcơva trên ba ngàn cây số.
Những năm tháng ấy, chúng tôi chỉ giao lưu với nhau qua các lá thư bằng con tem ba cô-pếc, hay phải hẹn nhau cùng ra bốt bưu điện ở hai nước cộng hòa khác nhau để “dốc bầu tâm sự”. Qua một số du học sinh quen, tôi biết Chung khi vào năm thứ nhất đã dám vay tiền bạn bè để tậu một “con Zenit” mới coóng. Thời ấy sinh viên Việt Nam có chiếc máy ảnh film là oách lắm rồi. Hễ chỗ nào có sinh nhật, hội họp là phải hẹn trước hàng tuần để Chung còn sắp xếp lịch, không bị lỡ thì khốn.

Matxcơva ngày ấy, không chỉ là thủ đô của Liên bang Xô Viết, mà còn là thủ phủ của cả phe xã hội chủ nghĩa, vì đi đường tàu hỏa kiểu gì cũng phải transit qua nhà ga Matxcơva. Ai diễm phúc được học ở Matxcơva là niềm tự hào của bản thân, của dòng họ cũng như quê hương. Riêng trường của Chung cách Quảng trường Đỏ có vài bước chân, nên Chung có khá nhiều bạn bè ở Liên bang Xô Viết và nhiều quốc gia khác. Ngày đó chưa có điện thoại di động, nên ai muốn gặp Chung thì chỉ có tìm ở giảng đường hay đêm muộn ở ký túc xá…
Sáu năm vèo trôi. Sau khi tốt nghiệp đại học, về nước có khá nhiều cơ quan xin, nhưng không biết thế nào, Chung lại chọn Trung ương Đoàn làm điểm dừng chân. Công tác ở đây một thời gian, Chung được cấp trên cho quay lại Matxcơva làm việc, rồi học cao học ở bên đó, liền tù tỳ tổng cộng tính cả thời sinh viên tới gần hai chục năm ròng.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, Chung trở về tổ ấm của mình ở Hà Nội. Không biết vì duyên cớ gì, Chung bỏ tất cả các công việc khác để dấn thân vào con đường văn học nghệ thuật. Trước kia ở Nga, một năm Chung về ở với vợ con được hai hoặc ba tháng. Từ hồi về nước, Chung sống với vợ con ít hơn thời gian khi còn ở bên nước ngoài. Vì thế Nhà thơ Bình Nguyên lúc tả chân dung Vũ Thành Chung bằng hai câu thơ chân chất, dí dỏm:
“Đời là một chuyến đi xa.
Mỗi năm ghé lại thăm nhà mấy hôm.”
Năm 2003, Vũ Thành Chung cho xuất bản tập thơ in chung đầu tay mang tên Thơ những ngày xa, mặc dầu năm 1975 Vũ Thành Chung đã giành giải A do Báo Văn Nghệ và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức với chùm thơ Màu áo. Thế rồi năm 2004, tập thơ thứ hai Miền quê thao thức chính thức được trình làng và cứ như vậy Vũ Thành Chung “đẻ” sòn sòn một mạch “mấy đứa liền”: Biển nhớ (2005); Thơ xanh bóng núi (2005); Lục bát giao duyên (2006); Cảm ơn nỗi buồn (2007); Cát ru (2009)...
Cố Nhà giáo Ưu tú, Nhà thơ Trọng Khánh – bạn thân của mấy anh em tôi – thấy thế hốt hoảng, đùa rằng: Nếu Vũ Thành Chung đang công tác tại Trung ương Đoàn, chắc chắn bị đuổi việc vì tội “đẻ” quá dày.
Ngoài giải A ra, Vũ Thành Chung còn được tặng thưởng giải C báo Người Hà Nội năm 2005, giải Lục bát Trăng Bạc năm 2017, giải Nhất giao hưởng viết về Hải Phòng năm 2010 (thơ Vũ Thành Chung, nhạc Nguyễn Tài Tuệ) và một số giải thưởng khác...
Sau lễ kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long (2009), Vũ Thành Chung chuyển từ “làng văn” sang “làng ảnh” và anh toàn tâm toàn ý vào công việc này. Có lẽ những người khác hoạt động trong lĩnh vực ảnh nghệ thuật không thể dành hết thời gian sức lực như anh được. Chỉ nói riêng ở Việt Nam, hầu như không có tỉnh thành nào từ biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc tới Mũi Cà Mau và các hải đảo lớn, kể cả quần đảo Trường Sa là không in dấu chân anh.
Năm 2024, Vũ Thành Chung đã ra tập ảnh Chưng cất bước chân mình với một trăm năm mươi hai bức ảnh nghệ thuật do Nhà Xuất bản Mỹ Thuật ấn hành. Rồi mấy ngày gần đây Vũ Thành Chung lại gửi cho tôi một trăm bảy mươi hai bức ảnh nghệ thuật với tiêu đề Thao thức với quê hương. Đây là những tấm hình thể hiện các cung bậc cảm xúc khác nhau, được chọn lọc từ hàng ngàn bức chụp trong gần hai mươi năm qua.
Có thể khẳng định rằng, đây là những tư liệu sống động giúp người xem hiểu được giá trị chân thực của cuộc sống mà ngôn từ không thể diễn đạt hết. Với cách bố trí từng cặp đối xứng, thể hiện sự tương phản mang đầy tính nhân văn, đem lại cảm xúc cuốn hút cho người xem.
Nhớ lại, mấy năm trước khi viết về Danh nhân văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi đã tìm ra một quy luật mang tên ở các địa danh cổ thuộc lục tổng khu dưới huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, được cụ Trạng đặt tên theo cách đối xứng từng cặp như: Đông Am với Tây Am; Tiền Am với Hậu Am; Hạ Am với Thượng Am… Nên cách bố cục đối lập nhau ở tập ảnh này cũng nối tiếp truyền thống nghệ thuật sắp đặt từ cổ xưa, nhưng được tác giả gửi gắm trong một không gian mở, tạo ra một cảm hứng sâu lắng được ngân vang gây ám ảnh cho người xem...
Tấm hình đầu tiên là Tượng đài của ba vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền, Lê Đại Hành và Trần Hưng Đạo ở Quảng trường Chiến Thắng, thì sánh với bức Toàn cảnh thế trận ven sông Bạch Đằng thuộc huyện Thủy Nguyên quê hương của Vũ Thành Chung. Tiếp theo là bức Phù điêu John McCain bên hồ Trúc Bạch, thì sánh với bức Toàn cảnh hồ Trúc Bạch ở Hà Nội. Hay cảnh Chùa Đồng lớn nhất châu Á trên núi Yên Tử, thì sánh với bức Tượng Phật Trần Nhân Tông bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Hay bức Bến tàu Trường Sa, thì sánh với bức Lễ thả hoa ở Trường Sa. Hay bức Chợ nổi ở Sóc Trăng, thì sánh với Chợ cá ở Hạ Long. Hay bức Giao duyên ở Mộc Châu, thì sánh với bức Bắt vợ ở Nghệ An. Hay bức Du thuyền trên vịnh Lan Hạ thuộc Hải Phòng, thì sánh với bức Về đích tại Huế. Hay bức Vào vụ cấy ruộng bậc thangở Yên Bái, thì sánh với bức Thu hoạch lúa ở Cao Bằng. Hay bức Địa đầu ở Móng Cái thì sánh với bức Đất Mũi ở Cà Mau. Hay bức con trẻ Tắm tiên ở Gia Lai, thì sánh với bức Chơi cù ở Mộc Châu…
Hay cùng trong một bức ảnh cũng có hai hình ảnh đối lập nhau như cảnh du khách nữ thả mình phơi nắng, thể hiện sự giàu có, thì sánh với cảnh nghèo hèn bởi một phụ nữ chân trần với gánh hàng rong mưu sinh. Hay bức Xưa và Nay ở Đắk Lắk thể hiện người phụ nữ thời nay lộng lẫy với bộ cánh mới sánh với bức chân dung bằng gỗ của người đàn bà thuở xưa bình dị…
Trong cái Gặp hay cái Thấy, thì nhiếp ảnh gia hay thi sỹ cũng đều có cảm xúc tương đối giống nhau. Vào một ngày cách nay hơn hai chục năm, lúc về đất chèo Thái Bình gặp một ca nương đang biểu diễn, thì cảm hứng trong Chung được dồn căng và đột nhiên mấy vần lục bát ra đời:
Mắt em lúng liếng đưa duyên.
Làn chèo em đổ cho thuyền đứt neo.
Anh về buộc lại dây lèo.
Chở em cùng những điệu chèo sang sông.
Khổ thơ bốn câu này đã dẫn người đọc tới góc vườn lục bát toàn bích với cách sử dụng từ ngữ khéo léo, bố cục chặt chẽ, lời lẽ tinh tế, hay cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
Còn khi tới cao nguyên Mộc Châu, Vũ Thành Chung thấy mấy cháu nhỏ chơi Gụ (Cù), một trò chơi dân gian Việt Nam có từ xa xưa. Cảm xúc trong người bùng nổ và Vũ Thành Chung chớp được cơ hội bất chợt này thật tươi mới, ngộ nghĩnh với ống kính ở tiêu cự ngắn. Sau đó bức ảnh này giành giải Nhì cuộc thi ảnh toàn quốc mang chủ đề “Hãy bảo vệ trẻ em”.
Đặc biệt, khi thành phố đã lên đèn ở vùng đất “Di sản thiên nhiên thế giới”, thì biên độ xúc cảm trong Vũ Thành Chung được mở ra, ở một góc cao bằng ống kính tele của mình, thì Hạ Long vào đêm thật lung linh huyền ảo, bởi nó đã mang lại cho người xem một nghệ thuật phản chiếu rõ nét của một tay nghề nhiếp ảnh gia đích thực. Tác phẩm này sau đó đoạt Huy chương Vàng của Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA).
Hay khi đến Huế với dòng Hương thơ mộng, bằng ống kính tele Chung đã chớp được cảnh ngư dân quăng chài bắt cá, nhưng ở đây không chỉ đơn thuần là vậy, mà nó còn tải cho người xem một không gian sông nước thật gợi, bố cục hài hòa, tạo ra một bức tranh nghệ thuật viên mãn của những người làm nghề sông nước.
Hay khi ra khu sinh quyển thiên nhiên thế giới Cát Bà, Chung đã bất chợt chớp được khoảnh khắc ấn tượng của hơi thở vùng đất nơi đây và giành giải A cuộc thi về đồng bằng sông Hồng. Và còn rất nhiều bức khác mà tôi không thể ghi ra hết ở trang viết này.
Với một trăm bảy mươi hai bức ảnh trong tập này là một trăm bảy mươi hai cảm hứng chân thực liền mạch thật lô-gic, được thể hiện ở rất nhiều góc máy khác nhau. Trong đó tôi thấy Vũ Thành Chung đã sử dụng hiệu ứng bokeh, tức lấy ánh sáng có cường độ thấp của đèn trang trí hay ánh sáng xung quanh từ xa để tạo nền mịn, lung linh, huyền ảo làm nổi bật chủ thể. Vùng mờ nhòa bên ngoài được sắp đặt có chủ ý như vậy, nó càng làm nhân vật chính tăng độ tương phản hơn, tuyệt vời hơn như bức Chơi đu ở Trung du, hay bức Chọi trâu ở Đồ Sơn…
Rồi có khá nhiều bức hình Vũ Thành Chung dùng thủ pháp Broken Frame, tức thủ pháp “phá vỡ khung hình”, giúp người xem mở rộng biên độ thưởng thức. Ví như bức Quả trứng vàng, mà anh em tôi đùa là Người đàn bà chăn vịt, nếu không có hai con vịt lạc lõng ở ngoài rào vây thì chắc chắn bức ảnh này không thể giành Huy chương Vàng Liên đoàn Nghệ thuật Nhiếp ảnh Quốc tế (FIAP) hay Hiệp hội Nhiếp ảnh Hoa Kỳ (PSA), bởi vì ảnh nghệ thuật ở phương Tây người ta rất quan tâm tới Broken Frame. Hay bức Thánh thiện được chụp ở đảo Khỉ ở vịnh Lan Hạ, nếu không có chú khỉ lạc lõng ở phía phải xa xa cháu gái ngoại quốc thì bức ảnh này mất đi một phần giá trị thẩm mỹ. Hay bức ảnh Kéo coở Gia Lai, nếu không có cháu bé xíu ngồi ở phía xa xăm thì bức ảnh giảm đi khá nhiều giá trị nghệ thuật. Hay bức Hai cảnh đời, nếu không có một phụ nữ đang ở phía bãi tắm tít xa, thì nghệ thuật tương phản giảm đi một nửa…
Với cách tiếp cận ở không gian gần hay xa, ống kính tiêu cự ngắn hay dài, góc ôm rộng hay hẹp trong toàn cảnh, trung cảnh hay cận cảnh, Vũ Thành Chung đã chớp được rất nhiều cảnh có hồn, truyền tải những thông tin giàu có và trạng thái sống động của nhân vật. Đôi lúc tôi có cảm giác Vũ Thành Chung đang trên một lối đi chênh vênh đến không ngờ, sau đó lại tới một không gian mở dẫn đến một chân trời xa rộng về khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình.
Hay qua những bức ảnh nghệ thuật mà Vũ Thành Chung thể hiện, là chiếc cầu nối giữa các thế hệ con người với nhau và đồng thời là nét quảng bá những sản phẩm văn hóa, du lịch tới cộng đồng dân cư trong nước và bạn bè quốc tế.
Dù chuyển sang lĩnh vực ảnh nghệ thuật với chừng gần hai chục năm, nhưng Vũ Thành Chung đã gặt hái được những thành tích đáng nể mà giới nhiếp ảnh cũng phải ghen tỵ: bốn Huy chương Vàng, một Huy chương Đồng của Liên đoàn Nghệ thuật Nhiếp ảnh Quốc tế (FIAP), một Huy chương Vàng của Hiệp hội Nhiếp ảnh Hoa Kỳ (PSA), Giải Nhất về ảnh nghệ thuật du lịch lần thứ sáu do Tổng cục Du lịch Việt Nam và Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) tổ chức, Huy chương Vàng của Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam (VAPA) với bức ảnh Hạ Long vào đêm, giải A cuộc thi về đồng bằng sông Hồng về đảo ngọc Cát Bà, giải Nhì cuộc thi toàn quốc Hãy bảo vệ trẻ em, một Huy chương Bạc, một Huy chương Đồng tại Liên hoan ảnh nghệ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng và nhiều giải thưởng khác nữa do các tỉnh tổ chức…
Khi tôi viết đến đoạn cuối bài này, thì được tin Tiến sỹ Luật, Nhiếp ảnh gia, Nhà thơ Vũ Thành Chung đã về cõi vĩnh hằng vào lúc 18 giờ 20 phút ngày 02 tháng 12 năm 2025 tại Hà Nội. Nhiếp ảnh gia đã ra đi, nhưng đời ảnh nghệ thuật còn lại mãi mãi với thời gian.
Cầu chúc linh hồn ông siêu thoát về miền Tây phương cực lạc./.
(1) Thành hoàng làng Ho (huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) là Thượng tướng quân Đô chỉ huy sứ Nguyễn Tử Mạch đã “che chở” cho thanh niên làng này không một ai hy sinh tại chiến trường trong bốn cuộc kháng chiến (Pháp, Mỹ, Tàu và Pôn Pốt).
Hải Phòng, Đông 2025
Nhà văn Tô Ngọc Thạch

