Đồng bằng sông Cửu Long chuyển đổi xanh trong nuôi trồng thủy sản

Đồng bằng sông Cửu Long chuyển đổi xanh trong nuôi trồng thủy sản

Lê Phương|16:34 06/10/2025

(NADS) - Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là trung tâm sản xuất thủy sản lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 95% sản lượng cá tra và 70% sản lượng tôm. Mô hình nuôi tôm theo hướng tuần hoàn, chuẩn hóa lại sản xuất là mục tiêu mà ngành tôm Việt Nam hướng đến và cũng là giải pháp trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày một trầm trọng. Chính vì thế, nuôi trồng thủy sản theo hướng xanh, tuần hoàn là xu thế tất yếu để đáp ứng những tiêu chuẩn, quy định của các nhà nhập khẩu.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), chuyển dịch theo hướng xanh, sản xuất tuần hoàn là xu thế của nhiều doanh nghiệp ngành thủy sản nhằm đáp ứng những đòi hỏi từ quy định, luật lệ, tiêu chuẩn về môi trường. Xu hướng nuôi trồng, chế biến thủy sản theo hướng giảm phát thải khí nhà kính giúp các doanh nghiệp đảm bảo các tiêu chí về môi trường, phù hợp với các yêu cầu của quốc tế.

W_thiet-ke-chua-co-ten1.png

Mô hình nuôi tôm công nghệ cao tuần hoàn khép kín (RAS) xử lý nước bằng công nghệ sinh học không xả thải ra mô trường

TS Lê Quang Huy, Công ty Minh Phú cho biết, hiện nay Minh Phú đang tập trung vào các biện pháp y tế dự phòng như sử dụng chế phẩm sinh học và tăng cường hệ miễn dịch cho tôm, thay vì chờ đến khi dịch bệnh xảy ra rồi mới tìm cách điều trị. Cùng với đó, áp dụng mô hình nuôi tôm dưới sức tải của môi trường, giúp giảm áp lực lên hệ sinh thái. Đồng thời, ứng dụng các chế phẩm sinh học như vi khuẩn, tảo và đạm thủy phân để tạo ra môi trường nuôi tôm cân bằng và giàu dinh dưỡng, hạn chế sử dụng hóa chất.

Về xanh hóa vùng nuôi, TS Lê Quang Huy cho rằng, thông qua việc tận dụng phế phụ phẩm từ các ngành công nghiệp khác để sản xuất thức ăn và phân bón sinh học, Minh Phú đang hướng tới mô hình nuôi tôm xanh, bền vững. Trong đó, tự sản xuất con giống để đảm bảo chất lượng thay vì phụ thuộc vào các nguồn bên ngoài. Qua đó, đã đạt được nhiều thành công trong việc nuôi tôm, giảm thiệt hại do dịch bệnh và biến đổi khí hậu, đây là hướng đi đúng đắn, góp phần vào việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngành nuôi tôm.

Việt Nam có nhiều lợi thế trong mô hình tôm – lúa và nuôi tôm quảng canh để phát triển ngành tôm bền vững và hiệu quả. Ông Ngô Tiến Chương, Trưởng nhóm Thủy sản thuộc Tổ chức Hợp tác Quốc tế Ðức – GIZ cho biết, hiện nay mô hình tôm – lúa gồm doanh nghiệp thủy sản, doanh nghiệp lúa gạo và các cơ quan quản lý, đây là mô hình được đánh giá triển vọng và phù hợp với định hướng phát triển bền vững. Ngoài ra, mô hình nuôi tôm quảng canh là một trong những loại tôm đặc trưng của Việt Nam, được nuôi gần như tự nhiên. Sản phẩm thủy sản xanh không chỉ đáp ứng các yêu cầu pháp lý khắt khe mà còn tạo hình ảnh tích cực về trách nhiệm môi trường của doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng và đối tác quốc tế.

W_thiet-ke-chua-co-ten2.png

Mô hình nuôi tôm - lúa được xem là mô hình sản xuất bền vững

Thách thức của ngành tôm Việt Nam là biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn; chi phí sản xuất cao do quy mô nhỏ lẻ và hạ tầng hạn chế; sự cạnh tranh gay gắt từ các nước như Ấn Độ, Ecuador. Ngoài ra, rủi ro dịch bệnh và các rào cản thương mại ngày càng gia tăng. Hiện nay, xu hướng phát triển của ngành tôm toàn cầu là công nghệ nuôi trồng bền vững, chuyển đổi sang sản phẩm xanh, hữu cơ và giảm phát thải carbon và tăng cường truy xuất nguồn gốc.

Bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam cho rằng, giải pháp phát triển ngành tôm Việt Nam bền vững cần phải ứng dụng công nghệ 4.0 trong nuôi trồng và truy xuất nguồn gốc, áp dụng thực hành nuôi trồng bền vững, sử dụng chế phẩm sinh học. Bên cạnh đó, chuyển đổi giống tôm và quản lý dịch bệnh, phát triển kinh tế tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm từ tôm. Nhân rộng mô hình nuôi tôm bền vững, tăng cường chứng nhận và liên kết chuỗi giá trị. Việc áp dụng các giải pháp này sẽ giúp ngành tôm Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng các yêu cầu về phát triển xanh của thị trường quốc tế.

Hiện nay, các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản đang ngày càng đặt ra yêu cầu khắt khe hơn về tính bền vững của chuỗi cung ứng. Cùng với đó, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần đáp ứng các tiêu chuẩn như ASC, BAP, GlobalGAP và nhãn sinh thái. Ngoài ra, các quy định về truy xuất nguồn gốc, giảm phát thải carbon và thân thiện môi trường đang trở thành điều kiện tiên quyết để duy trì và mở rộng thị phần.

W_thiet-ke-chua-co-ten3.png

Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản từng bước đáp ứng các tiêu chuẩn của quốc tế

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Phùng Đức Tiến cho biết, ngành tôm Việt Nam đang bước vào giai đoạn cách mạng xanh với sự thay đổi mạnh mẽ về phương thức, mô hình sản xuất từ truyền thống sang sản xuất bền vững. Chuyển đổi xanh trong ngành thủy sản không chỉ đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường mà tạo dựng hình ảnh, trách nhiệm với đối tác quốc tế.

Với hơn 750.000 hecta nuôi tôm, sản lượng 1,3 triệu tấn mỗi năm, Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt lịch sử thay đổi để đáp ứng yêu cầu xanh, bền vững hoặc tụt lại phía sau. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn là chìa khóa giữ vững thị trường mà còn là cam kết trách nhiệm của ngành thủy sản Việt Nam đối với môi trường và tương lai, thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Nhiếp ảnh & Đời sống
Đồng bằng sông Cửu Long chuyển đổi xanh trong nuôi trồng thủy sản
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO