Kỳ 2: Những cuộc hành quân của lính chiến trên đường 20 quyết thắng

Kỳ 2: Những cuộc hành quân của lính chiến trên đường 20 quyết thắng

18:57 21/02/2021

NADSO - Được lệnh hành quân dọc theo đường mòn giao liên, lúc đó gọi là đèo 1001 đi xuyên qua núi từ Quảng Bình sang Lào. Con đường này lúc đó rất khó đi, đường đất trơn tuột dốc thẳng đứng, đi qua nhiều lau sậy, vào những ngày mưa thì từng đoàn vắt đuổi theo. Nghe rào rào rồi những chú vắt cứ thế “tùy tiện” chui vào bất cứ đâu, có thể chui  mà “không hề xin phép”. Các cô chú bộ đội may mắn là khác với đỉa, những chú vắt sau khi hút no máu thì tự lăn ra mà không “đóng đô” lại đâu đó trên cơ thể như loài đỉa.

Những nữ thanh niên xung phon trẻ trung, đầy sức sống và niềm tin (ảnh tư liệu)
Mở đường 20 Quyết thắng

Trong đoàn hành quân cũng có đồng chí sợ vắt đến phải khóc, sợ thú rừng cũng khóc, mang vác nặng cũng khóc. Nhưng khóc thì chẳng có ích lợi gì, vì có ai nghe đâu, mọi người đều mải miết đi…đi, may ra chỉ có gió, mưa, và những chú vắt rừng nghe được. Nói thế thôi, trong các cuộc hành quân chị Phượng là người thường đi trước, nhưng lại thường xuyên đứng đợi hoặc lộn lại đằng sau để xem các đồng chí có người nào tụt lại để còn giúp đỡ. Có đồng chí nặng quá không mang theo được đã vứt lại cả những bao tượng gạo, những tăng màn, quần áo, thế là chị phải nhặt hết, mang theo trên đôi vai của mình có lúc đến hơn 50kg. Nếu không mang đi dọc đường lấy gì mà ăn, đồng chí mình lấy gì mà ngủ.

Có lệnh được nghỉ giải lao cả đoàn quân dừng lại, người thì nhanh nhẹn đi kiếm nước tranh thủ bắc ngay tăng gô lên để nấu cơm, một số đồng chí mệt quá nằm ngay ra vệ đường ngủ một giấc. Lúc này chị tranh thủ đào vội cái bếp Hoàng Cầm để cho anh em cùng nấu cơm và đi vào nhặt nhanh nắm củi để nấu vội tăng gô cơm. Khổ nhất là khi đi qua Binh Trạm 14, chẳng có lấy một giọt nước nào: “Nước khe cạn bướm bay lèn đá”. Thế là cả đoàn quân chia nhau múc những tăng gô nước ở khe đá cạn đầy ắp, những con nòng nọc đến khi nấu xong cơm thì nòng nọc cũng nằm lẫn gạo như là thức độn thêm vậy. 

“Nhờ có thêm “chất nòng nọc” nên sau khi ăn chúng tôi đi nhanh hơn. Tuy nhiên trong hàng quân cũng có sự cố xẩy ra, một số đồng chí kêu mất bao tượng gạo, đồng chí khác kêu mất súng, có cả đống chí mất cả tăng vòng, lại có tiếng khóc thút thít của ai đó giữa hàng quân. Hóa ra khi trời nhập nhoạng tối, lính ta tranh thủ ngủ thế là cánh dân công hỏa tuyến đi qua họ “mượn” mất lúc nào không biết. Trong đêm tối âm u của núi rừng tiếng khóc cứ nghẹn lại như bị ai đó chặn ở cổ họng, chỉ nghe những tiếng nghèn nghẹn như tiếng chú cóc nghiến răng lúc trời chuẩn bị mưa”, chị Phượng kể.

Đoàn quân lại đi và rồi B52 rải thảm, những người lính đi từ khu 4 cho nên chuyện bom đạn là lẽ thường tình. Có đi chiến trường hay ở nhà thì cũng vẫn bom đạn nó réo rắt cả ngày, chẳng mấy ai để ý, bom cứ thả và đoàn quân vẫn cứ đi. Nhưng lần này thì không thể bình thường được nữa, bom ném đúng giữa đoàn quân của chị khi đang đi phía trước thì bỗng nhiên có tiếng hét “nằm xuống”. Chưa kịp định thần thì cả đám lửa khồng lồ đã bùng lên, tiếng máy bay B52 rít qua đầu người. Đã là B52 rải thảm thì khi nghe tiếng bom nổ mời nghe được tiếng máy bay rít qua đầu, và có đến hơn chục đồng chí, chiến sỹ nữ đã vĩnh viễn ra đi.

“Cuộc hành quân được chuyển sang đi bằng ô tô tải, chúng tôi nằm chung với những bao gạo đầy ắp trên xe, cả nam và nữ đều nằm chung. Lấy bao gạo làm “vĩ tuyến 17” nhưng đến khi ngủ quên, xe sóc mạnh thì lúc thức dậy thấy mình đang ôm một “bao gạo” có hẳn cả quần áo và cả râu. Thật kinh hoàng tạm nghỉ điểm lại quân số: thiếu mất một đồng chí nữ, hóa ra đồng chí này nằm trên gạo nên khi xe chạy xóc quá bị rơi xuống đường lúc nào không biết. Thôi thì để đơn vị khác cứu giúp, đoàn quân cứ thế mà đi”, chị tâm sự thêm.

Chiến sĩ nữ hành quân sang nam Lào

Các chị lại tiếp tục hành quân dọc các trạm giao liên đó là thời điểm chiến tranh ác liệt nhất, bởi mới có “Mậu Thân năm 1968” quân bị tổn thất ghê gớm. Với cái thế cài răng lược, nhiều nơi quân mình bị chặt hết mọi con đường chi viện và cảnh tượng đó cũng xảy ra với các trạm giao liên. Các chị đi mỗi ngày qua được một trạm, càng lên cao càng mệt, đói, khát và những cảnh tưởng gặp dọc trạm giao liên đã làm cho chúng tôi vô cùng đau đớn. 

Nung nấu thêm ý chí quyết tâm hành quân, để đến đơn vị chiến đấu. Những cái vòng tăng ở các trạm giao liên vẫn còn đó, lác đác những thi thể đồng đội nằm trên võng, tay vẫn còn nắm chặt những lá thư, những tấm hình của mẹ, của vợ của con nhỏ và ra đi thanh thản, các anh ra đi không phải vì bom đạn mà vì đói, sốt rét, bệnh tật. Đâu đấy vương vãi những lá thư, với những dòng chữ đã nhòe nhoẹt do mưa gió. Tận mắt chứng kiến bao nhiêu đồng đội hy sinh như vậy dọc theo đường giao liên, nhưng chẳng khong ai có thời gian để dừng lại chôn cất các anh. Nhưng các chị vẫn mải miết đi, đi mãi mong đến đơn vị chiến đấu để trả thù cho đồng chí của mình.
Ba tháng trời hành quân, đói khát và bom đạn, thám báo rình rập cái chết luôn luôn kề cận lúc nào không ai hay. Thế nhưng với sức trẻ và ý chí “vì miền Nam ruột thịt” đã thôi thúc họ nuốt nước mắt vào trong, đẩy căm thù giặc Mỹ xâm lược lên đến đỉnh đầu. Trong chị chỉ có một quyết tâm là phải vượt qua được chặng đường gian khổ, để sớm đến đơn vị tham gia chiến đầu nhanh nhất. 

Gặp bao nhiêu thanh niên xung phong, dân quân hỏa tuyến, có cả phụ nữ, nam giới đồng bào Vân Kiều, Pako đi tải đạn, tải gạo. Họ mang vác trên đôi vai của mình một trọng lượng hơn cả cơ thể, đi hết ngày nọ đến ngày kia để tiếp thêm gạo vũ khí cho tiền tuyến. Thật cảm phục văng vẳng bên tai tôi bài hát: “Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu” là như thế đó. Gặp nhau chưa kịp chào câu “đồng chí” đã vội vượt lên rồi, tiếng thở dốc, tiếng bước chân nặng nề là vậy nhưng chẳng có ai lùi lại phía sau. Tất cả đều cố gắng đi thật nhanh về phía trước, càng đi càng gặp những cán bộ y tế cùng những chiếc võng và trên đó là những người thương binh nằm bất động đi theo hướng ngược lại điều đấy cho thấy chiến trường ngày một gần hơn”, chị Phượng nhớ lại.

Dọc đường đi qua những bãi lau những dàn vắt, chạy nhanh theo đoàn quân và sau đó khi đã ăn no máu mấy chú vắt lại tự lăn ra khỏi cơ thể. Những người lính chẳng còn ai buồn nhớ là đã bị bao nhiêu con vắt cắn, và nó đã từ đâu chui ra khi đã no nê máu. Sau ba tháng tôi và 3 đồng chí còn lại được phân công về Trung đoàn bộ trung đoàn 541 mà lúc bấy giờ gọi là Binh Trạm 41. Tôi được phân công về làm anh nuôi của trung đoàn bộ, một nhiệm vụ mới bắt đầu.

Thời gian làm anh nuôi cũng có những kỷ niệm vui, khi lính chị lẻn sang doanh trại của thanh niên xung phong ăn trộm áo màu đỏ  để đem đến cái chợ trong bản người Lào Thưng đổi lấy mấy con gà. Khi về ăn vừa mỉa mai sao gà hôm nay già thế, người ngoài không biết cứ thắc mắc là gà ngon thế sao lại bảo già. Mấy hôm sau các O thanh niên xung phong đến tận lán trại đơn vị bắt đền cánh lính trẻ, mấy cậu còn chỉ vào bụng ý nói nó đã vào hết dạ dày rồi.

Bia tưởng niệm những nữ thanh niên xung phong mở đường 20 quyết thắng (ảnh tư liệu)
Vác súng chĩa máy bay địch

“Một lần đi ra vườn rau tăng gia để bón phân, thì bất ngờ máy bay Mỹ bay vè vè trên ngọn cây. Đây là một loại máy bay Bà già, chuyên dùng loa để chiêu hồi. Chúng ném cả những nắm truyền đơn xuống bãi rau mà tôi đang nấp, rà xuống sát vườn rauchắc chắn là đã bị lộ. Chiếc trực thăng bay đến thả ngay dây thang xuống, mấy tên lính ngụy ôm súng định nhảy dù. Không còn cách nào khác đành vác súng chĩa thẳng vào máy bay địch. Sau đó chạy thục mạng về đơn vị, rồi thông báo để được lệnh hành quân gấp. Nửa tiếng sau, cả doanh trại đã tan tành dưới những trận B52oanh tạc”, nữ chiến sĩ Phượng kể.

Đức Vượng

(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Nhiếp ảnh & Đời sống
Kỳ 2: Những cuộc hành quân của lính chiến trên đường 20 quyết thắng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO